Hà Nội ngày nay là thành phố hơn một nghìn năm tuổi với những con đường ngày càng mở rộng, xe cộ ngày ngày đông đúc, ồn ào tấp nập với nhịp điệu hối hả của thời đại công nghiệp.
Hà Nội xưa cổ kính thâm nghiêm, với nhịp sống chậm rãi giờ chỉ còn trong hoài niệm của những người có tuổi. Rất nhiều những kỷ vật, hình ảnh của một thời xa xưa gắn với lịch sử của thủ đô nay không còn, một trong số đó là ký ức về những chuyến tàu điện mà trong gần một thế kỷ tồn tại là phương tiện giao thông công cộng chính ở nơi đây.
Lịch sử tàu điện Hà Nội theo nhiều nguồn thông tin được bắt đầu năm 1900 do Công ty Điền địa Đông Dương (Usine de la Société des tramways électriques de l’Indochine”) - một công ty của Pháp xin phép chính quyền thực dân thành lập một cơ sở khai thác giao thông bằng tàu điện gọi là “Nhà máy xe điện” thuộc công ty này. Nhà máy đặt ở làng Thụy Khuê, cho tới ngày nay là trụ sở của Xí nghiệp xe điện Hà Nội.
Năm 1900 người Pháp cho chạy thử chuyến tàu điện đầu tiên từ Bờ Hồ - Thụy Khuê. Chợ Đồng Xuân nằm trên tuyến đường tàu điện chạy qua đông hẳn lên và suốt ngày nhộn nhịp. “Nhà tàu” hái ra tiền, khối lợi nhuận. Do vậy sang năm 1901 có thêm đường Bờ Hồ - Thái Hà ấp, lúc đó đường tàu chạy dọc Hàng Bông sang Cửa Nam, theo đường Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) rẽ sang trước mặt Văn Miếu rồi ra đường Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng).
Tới năm 1929, tàu điện từ ga Trung tâm Bờ Hồ (Ga tàu điện Bờ Hồ nay là ngôi nhà “Hàm cá mập”) đã tỏa ra 6 ngả: lên Yên Phụ, lên chợ Bưởi, sang Cầu Giấy, vào Hà Đông, xuống Chợ Mơ và Vọng, nối nông thôn với nội thành.
Thời Pháp thuộc tàu điện chia làm 2 hoặc 3 toa với thứ hạng khác nhau: hạng nhất, hạng hai. Hạng nhất là khoang nhỏ ở toa đầu sát chỗ đứng người lái (thời đó gọi là Vát man) có hai hàng ghế bọc đệm, vé đắt gấp đôi hạng hai ở phía trong toa và các toa sau chỉ có hai hàng ghế gỗ dài theo thân toa. Hàng hóa xếp ở dưới ghế ngồi, thúng mủng quang gánh của các bà các cô thì móc ở toa cuối.
Ngày tàu điện mới ra đời, rất nhiều người cho đó là sự lạ, tự hỏi tại sao nó chạy được nhỉ? Bởi nó không có đầu máy tỏa khói như tàu hỏa, lại còn kéo theo được cả mấy toa dài dằng dặc và cứ lừ lừ tiến bắt tất cả các phương tiện giao thông khác phải nhường đường. Nó đủng đỉnh, chậm chạp như muốn phù hợp với phong vị buồn tẻ và cổ kính của Hà Thành hồi ấy.
Có câu chuyện kể đáng nhớ nhất là bất cứ toa nào và đi về đâu, đều có những người quảng cáo bán các thứ thuốc cao đơn hoàn tán: thuốc cam Hàng Bạc, thuốc ho bà lang Trọc, dầu cù là... Còn có những người hát xẩm, vừa kéo nhị vừa hát để xin tiền. Cả bọn lưu manh ăn cắp hoặc cướp giật nhảy tàu như làm xiếc. Người mất của và cả người “sơ -vơ” (người bán vé) chỉ biết nhìn theo.
Tàu điện thời kỳ này chạy từ 5h đến 23h, với 4 tuyến tỏa ra bốn phương ngoại thành là Hà Đông, chợ Mơ, chợ Bưởi và Cầu Giấy, ngoài ra còn một chuyến qua khu phố cổ Hàng Ngang, Hàng Đào, chợ Đồng Xuân, Yên Phụ. Tối khuya các xe lại tập trung về đỗ ở phố Thụy Khuê.
Khách đi tàu thường đông, vì giá vé rẻ. Hai tuyến Bờ Hồ - Hà Đông, Bờ Hồ - chợ Mơ đông khách, tàu có ba toa. Còn các làn đường khác tàu chỉ có hai toa Toa đầu có người lái tàu và người bán vé. Người bán vé kiêm luôn việc cầm dây thừng xoay ngược cần lại mỗi khi tàu đổi chiều đi tại bến cuối. Còn chạy nhanh hay chậm là do lái tàu điều khiển qua hộp số tốc độ. Người lái tàu ngồi ở chính giữa đầu tàu, tay trái nắm thanh đồng gạt qua gạt lại để tăng giảm tốc độ. Tay phải đặt trên vô lăng phanh để hãm tàu dừng lại hoặc cho tàu lăn bánh. Chân phải đặt sẵn trên núm chuông, mỗi lần giậm nhẹ chân là tàu phát ra tiếng chuông leng keng leng keng báo cho biết tàu đang đi hoặc sắp đến bến đỗ. Mỗi khi thấy có người hoặc xe sắp băng ngang qua đường tàu, bác tài lại giậm chân cho chuông kêu vang lên rộn rã.
Đi tàu điện, được ngắm cảnh phố phường, thăm thú những địa danh nổi tiếng của Hà Nội là niềm vui của biết bao nhiêu người khách phương xa, của những cô bé cậu bé. Lên tàu, người ta còn được nghe một loại hình âm nhạc đặc trưng gắn liền với tàu điện mà chỉ riêng Hà Nội mới có - xẩm tàu điện. Những đêm mưa phùn, gió bấc, trong tiếng lá rơi xào xạc, những bước chân hối hả bước lên tàu… Giữa cái rét se lạnh, mệt mỏi, hành khách bỗng ấm thêm bởi tiếng hát, tiếng nhị, tiếng phách của bố con ông hát xẩm: “Này anh khóa ơi!... ngày anh đi lên kinh thành ứng thí, em ở nhà nuôi mẹ một mình… tủi lắm! Này anh khóa ơi!…”. Mấy người hảo tâm dúi vào chiếc nón rách bươm trên tay cô bé vài chinh. Nhà thơ Vũ Quần Phương trong tập hồi ký, truyện ký Leng keng Hà Nội kể lại một chuyện về hát xẩm trên tàu điện: “Điệu xẩm thảm thương, buồn, bài nào cũng là thân phận con người sa cơ lỡ bước. Người hát, có khi là cả một gia đình chồng vợ và con, giọng kim giọng thổ lẫn giọng non chưa vỡ tiếng quyện nhau chới với. Điệu hát như tiếng thở dài của thành phố, lâm li thân phận toa tàu đang huyên náo bỗng lặng đi, cám cảnh. Cái chậu thau nhỏ cóc cáy, méo mó chìa trên tay đứa trẻ, hành khách lặng lẽ đưa vào những đồng hào nhỏ. Khách xe điện thường nghèo, cái cách cho tiền có một vị chia sẻ của người đồng cảnh, không giống với cách thưởng tiền của quan viên nghe ca trù hay chơi tam cúc điếm, hào sảng, hả hê. Sau này lớn lên, xem lắm thứ biểu diễn, tôi chưa thấy sân khấu nào có được sự đồng cảm diễn viên - khán giả cao quý như giữa những người áo ngắn ấy với nhau...”
Khi người Pháp rút khỏi Hà Nội, họ tin rằng chỉ sau 3 tháng Hà Nội sẽ không còn tàu điện bởi cơ sở vật chất cho tàu điện hoạt động khi ấy đã gần như kiệt quệ.
Thế mà chẳng những thành phố đã duy trì được mà tàu điện còn phát triển, nhiều tàu mới toa mới được đóng thêm. Lúc đỉnh cao ngành đạt được 37-38 triệu lượt khách một năm, bởi vì đi tàu điện vừa rẻ vừa thuận tiện.
Nhưng thời kỳ hoàng kim của tàu điện cũng không kéo dài mãi. Tàu điện lạc hậu cũ nát không còn phù hợp với nhịp sống và sự phát triển các phương tiện giao thông cá nhân. Cuối những năm 80, tàu điện Hà Nội mà lúc này là Công ty xe điện Hà Nội rơi vào khủng hoảng. Các toa tàu với thiết bị cũ kỹ lạc hậu, dù được cải tiến sửa chữa nhưng vẫn rơi vào khó khăn và càng lúc càng ít người đi.
Rồi đầu những năm 90, trước sức ép của sự phát triển kinh tế, xã hội, tàu điện Hà Nội đã phải tháo dỡ vì không đáp ứng được nhu cầu giao thông trong thành phố nữa. Hà Nội mất đi tiếng leng keng quen thuộc mỗi sớm hôm…
Tàu điện Hà Nội tồn tại hơn 90 năm - gần một thế kỷ. Biết bao lớp người đã dùng tàu điện làm phương tiện đi lại hằng ngày. Tiếng chuông leng keng của nó tạo nên nét riêng biệt độc đáo của thành phố, đi vào tâm hồn nhiều người dân Hà Nội như một điều gì đó đặc trưng, khó phai nhạt trong ký ức. Đã 20 năm kể từ ngày những toa tàu sơn đỏ cũ kỹ già nua dừng hẳn hoạt động của mình, nhưng tàu điện vẫn là một đặc trưng văn hóa riêng biệt của riêng Hà Nội mà khi nhắc đến, lớp người từ 40-50 tuổi về trước vẫn còn bồi hồi xúc động khi nhớ lại những kỷ niệm thân quen gắn liền với những chuyến tàu.
Để những người thuộc thế hệ đi trước có cơ hội ôn lại những kỷ niệm về tàu điện, vào ngày 26/10/2012 sắp tới, Hội Quán Di Sản kết hợp cùng Bảo tàng Phụ nữ tổ chức đêm hát Xẩm tàu điện tại sân Bảo tàng, số 36 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chương trình sẽ đưa người xem trở về với những làn điệu Xẩm đặc trưng gắn liền với tàu điện và tái hiện lại những hình ảnh về phố cổ Hà Nội xưa bằng những hình ảnh trình chiếu 3D. Bên cạnh đó, người xem cũng được thưởng thức những món quà quê và đồ uống dân dã, mang đậm chất văn hóa Hà Thành ở thế kỷ trước.
Chương trình hứa hẹn thu hút không chỉ lớp người cao tuổi mà còn là một sân chơi văn hóa bổ ích, giúp cho các bạn trẻ hiểu thêm về loại hình Xẩm tàu điện cũng như văn hóa đướng phố Hà Thành xưa.